Thứ Sáu, 17 tháng 5, 2013

NGUYỄN PHƯƠNG UYÊN

                             Hiên ngang trong tà áo trắng
                             Bình thản nói lời cuối cùng
                             Em nói : rằng mình yêu nước
                             Tù tội, em chấp nhận thôi
                             Xin đừng ai phiền cha, mẹ
                             Lời em , thổn thức bao người

                             Mong em được nhiều sức khỏe
                             Vượt qua tù tội, khổ đau...
                             Con thuyền vượt qua giông bão
                             Biển yên, rạng sáng chân trời     

Thứ Hai, 13 tháng 5, 2013

ĐI MÔ RỒI CŨNG NHỚ


LÁ LẰNG, MỘT MÓN ĐẶC SẢN XỨ NGHỆ
alt           alt
Cây lá lằng, thuộc họ ngũ gia bì
   Người dân  Xứ Nghệ ai mấy ai mà không biết món canh lá Lằng, nhất là dân huyện Quỳnh Lưu, món ăn từng được nếm từ thửa lọt lòng. Đến giờ, lá lằng đã thành món đặc sản Xứ Nghệ, và có mặt khắp nơi trong nước và cả trên thế giới. Cứ ở đâu có dân Nghệ, ở đó có lá Lằng.
   Ngày xưa ấy, người dân Quỳnh Lưu lên rừng hái củi, chặt hom tranh, chặt lạt giang... thế nào cũng kèm theo vài bó lá lằng đem về dùng. Nhiều người còn cất công đi mất đôi ngày để hái được một gánh lá lằng, về  nhà chọn lưa, thái nhỏ phơi khô, đem đi chợ bán lấy tiền mua khoai, mua gạo nuôi con ăn học. Nó là món cứu đói đấy!
    Lá lằng mọc nhiều ở rừng, nhưng người miền rừng ngày trước lại không biết dùng, thế cũng hơi lạ, chắc trên rừng có nhiều loại cây trái ngon hơn.
    Cái thời chẳng biết mì chính, bột ngọt là gì, thế mà nhờ món canh lá lằng, cho dù cơm độn đến 90%  rau và khoai sắn... cứ nuốt ào ào đến căng rốn!  Ngày ấy, đứt bữa là chuyện bình thường, cứ luộc nồi khoai, một nồi canh lá lằng, kèm cà muối, ngon như bây giờ  ăn cỗ! Còn nhớ, hồi năm sáu mấy, trên bom dưới đạn, được phân phối cám ngô đầy con mọt để cứu đói, nếu không có canh lá lằng chắc nuốt vào, khó mà ra! Bây giờ, lớn lên, già đi mà thấy da thịt đẹp, chắc, có lẽ nhờ món ăn sạch tuyệt đối này cũng nên.
    Món lá lằng Xứ Nghệ đắng lắm, nhưng hậu có vị ngọt, tính mát, nghe nói  chữa được khá nhiều bệnh! Mùa hè oi ả, nồng nực là thế, gió lào quất rát khô đến hốc người, ăn lá lằng chẳng có chút rôm sảy nào. Món này, thách đố nơi nào có, và đố ai dịch được ra tiếng ngoại quốc danh từ “lá lằng”, dân Nghệ sẻ phong cho "Giáo sư danh dự Xứ Nghệ”!(?)
      Thời nay, người ta nhân giống, chiết cành, thậm chí còn trở thành cây cảnh; làng nào cũng có cây lá lằng, nhưng thú thực, ăn không được ngon lắm. Lại có một loại “lá chân chim”, na ná vị lá lằng, nhưng ăn thì cảm giác the the đầu lưỡi, khe khé cổ họng; Còn lá lằng thì tiền hậu vị đều ngọt ngọt, chat chát từ đầu đến cuống lưỡi. Nhiều người thường hay lầm lẫn và khó phân biệt ra điều ấy.
   Cây lá lằng cũng như cây chân chim, thân gỗ, cao cỡ chừng ba bốn mét, mọc chen lấn, tán thấp trong rừng, dọc triền dốc và gần bờ khe, con suối. Loại này ít mọc tập trung, lại chen lấn vào chốn rậm rạp, nên tìm được nó không phải dễ. Kinh nghiệm người dân, cứ theo dấu chân con nhím là ắt tìm thấy cây lá lằng. Hình như nhím ăn rễ cây lá lằng thì phải. Hai loại cây lá lằng và chân chim đều có cành tỏa xòe thành tán, lá kép, mọc đối. Riêng lá lằng, thân lá có năm bảy khía, một cánh có năm lá chính và hai lá phụ. Cuối khía trên thân lá nó hơi nhú ra như muốn tạo gai, lá chân chim thì bầu và trơn hơn. Lá lằng màu xanh thẩm, lá chân chim hơi phớt vàng. Mùa tháng 4 đến tháng 7 âm lịch, cây lá lằng cho lá nhiều và ngon nhất.
   Lá lằng hái về, thái sợi nhỏ, phơi thật khô, bỏ vào hũ sành, nút kín bằng lá chuối khô, dùng quanh năm. Mội nồi canh vài lít nước, chỉ cần bỏ gần một nắm tay là vừa, nhớ là bỏ vào lúc canh sôi, nhấc xuống và dùng ngay, ăn nóng, nó mới có vị đắng đắng, ngọt ngọt như ta nhâm nhi chè búp, nên rất ngon. Nếu làm món xào với lòng lợn, với các món khác, cũng nhớ cho lá vào khi món xào đã chín và nhấc xuống ngay.
   Lá lằng nấu canh tép đồng tươi là hạp nhất. Nếu không, có thể thay bằng cá nướng, nhất là cá trích đã qua kho mặn hoặc khuyếc biển cũng ngon. Nhưng phải có lưng bát cà ngô kiu(một dạng cà chua trái nhỏ , tròn- nhiều người nghe thấy lạ) tròn lẵn, mọng đỏ cỡ bằng đầu ngón tay mới đúng vị; Nếu không thì nấu với cà chua bình thường cũng được, tuy không ngon bằng cà ngô kiu. Món này, là món đặc sản của thời nay , nhưng với “dân choa” thì nó là “thường thôi”!
    Ngày nay, buổi cơm trắng gạo thơm, người ta “biến tấu” ra các món ăn từ lá lằng, nào xào với gan bò, xào với lòng heo ăn kèm bánh khô vừng… Chu cha, rượu mô mà cho thấu!
   Bây giờ, đến bất cứ dân Nghệ nào dẫu ở Nam hay Bắc, nhất là "Nghệ Kiều" xứ Sài Gòn, hỏi có lá lằng không, xin thưa có ngay. "Nghệ Kiều" về quê, hay khách đến thăm đều "ọt"(gói) lá lằng đem theo để ăn và làm quà. Mấy nhà hàng do "Nghệ Kiều" làm chủ, bao giờ cũng có món lá lằng trên thực đơn. Kể cả nhà hàng "Kyan", của nhà thơ Đỗ Trung Quân, to chà bá ở gần trung tâm Sài Gòn, chẳng dính dáng chi đến Nghệ, mà thực đơn cũng có: "Lá lằng các kiểu" tùy theo thời giá. Có quán cháo lươn Chương Mập, người Thành Phố Vinh, nổi tiếng ở Gò Vấp, còn sáng tạo ra món "trứng gà so đảo lá lằng", "thịt trâu um lá lằng", "lươn hầm lá lằng" ngon đến là ngon.
   Đặc biệt, canh lá lằng, chan với cơm, ăn với cà muối, cá biển hoặc thịt lợn nạc kho mặn, thôi thì thóc gạo lên giá là phải.
   Ngày xưa, nghe nói chỉ dân huyện Quỳnh Lưu mới biết dùng lá lằng, bây giờ thì cả…thế giới biết đến rồi(?) Ở đâu có dân Nghệ thì ở đó khắc có lá lằng. Mấy đứa bạn bên Châu Âu, châu Mỹ … cứ rèo réo: Bên này chỉ thiếu lá lằng, thế là tôi thành nhà trung chuyển từ quê sang cho chúng nó.Thế mới là siêu phàm đấy. Dân Nghệ ở hải ngoại anh nào nhận được gói lá lằng khô thì cả cộng đồng đều biết, vì được biếu lại cho một tí để thưởng thức. Món này gửi qua bên đó, phải thật công khai và mẹo vặt một chút, không thì Hải quan nước ngoài tưởng là cần sa, và sẻ có vấn đề ngay. Ai muốn hỏi kinh nghiệm về việc này, tôi xin chỉ dẫn, miễn phí!
   Chắc đến một thời kỳ nào đó, lá lằng trở thành "Quốc thực" chớ phải chơi!
   Lá lằng còn là vị thuốc chữa say rượu, mát gan, bổ thận, nhuận trường... chữa gãy xương, chữa bỏng nữa cơ đấy.
  Lá lằng đã vào thơ, vào ca, vào nỗi nhớ quê của người Nghệ xa xứ. Nó đã đi vào tiềm thức của người Xứ Nghệ. Nó đã thành đặc sản của chúng ta.
MÓN BÚN - GIÁ - CÁ - RUỐC:
   Ở xứ Nam Bộ, con cá trích, cá thửng (cá mối)lâu nay người ta không màng tới. Nhưng từ ngày dân Nghệ vào cư ngụ đến nay, nó lại thành  món ngon hấp dẫn. Khắp các chợ Sài gòn đều có quán cá trích, cá thửng nướng. Cá đó đem nướng than củi đến độ se thơm, bén cháy một chút, rồi kho đến ải với muối hạt và mật mía, gia vị là vỏ quýt phơi khô, đảm bảo “thơm từ cá, ngọt từ môi”. Món này, người bệnh liệt giường cũng phải ăn được vài bát cơm là ít!
   Cá trích nướng chín, ăn với bún và mắm tôm, kèm giá đậu, đố ai quên được. Món “bún, giá, cá ruốc” là một đặc sản danh tiếng của “Chợ Nồi” xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu. Món bún lá, kết hình tròn, dẹt như lòng cái đĩa nhỏ, ngon tuyệt chiêu là chốn này. Bún làm hoàn toàn bằng thủ công , tỉ mẫn, không hóa chất, không máy móc, nó là một nghề gia truyền, í ai biết được. Bún Làng Quỳnh thơm chua, dẻo, giòn, ăn no lúc nào chẳng để ý được. Nếu có về, nhớ ăn một lần, khi chết đỡ thiệt! Chuyện rằng: Cụ bà Châu Thị Ba, quê ở Quảng Nam-phu nhân Tri huyện Nguyễn Thụ đã đưa nghề bún lá về làng Quỳnh Đôi cách đây đã trên 130 năm, và tồn tại và phát triển đến ngày nay không mai một. Thế mới biết bún Làng Quỳnh nó sạch và ngon đến cỡ nào.
      Kể món ăn Xứ nghệ có mà hết thời này sang thời khác, chuyện nọ xỏ chuyện kia, sợ miếng của làng bắt quàng sang món xứ…Nó nhiều vô kể và độc đáo đến ngạc nhiên. Kể nhiều, cứ thòm thèm, khó chịu lắm, khó chịu đến rỏ dãi!
NƯỚC CHÈ XANH KIỂU "QUÊ CHOA":
   Thói đời, đã ăn thì phải uống. Uống chè xanh kiểu Nghệ, không cẩn thận , không quen là “say sùi bọt mép” ngay lập tức; Ai chưa quen, chớ có mà làm liều!
    Chè xanh có nhiều kiểu nấu khác nhau, và tất nhiên là kết quả cũng có khác, chỉ có người nghiện mới phân biệt được. Nếu để tiếp được nhiều người, thì người ta nấu trong “nồi bộng” bằng đất nung thật to, dung tích cỡ vài chục lít. Nấu nước chè xanh bằng nồi kim loại là vứt. Đun nước phải bằng củi cây mít, củi cây săng lẻ thật nỏ mới ngon, mà phải đun lửa trận mới đủ nhiệt. Khi nước sôi sung sục, mới được bỏ chè đã vò kỹ vào; cho sôi tiếp, rồi chế thêm mấy gáo nước nước lạnh cho chè nhừ, rồi ủ. Người nhà đi khắp thôn mời mọi người qua uống “nác” (nước) chè xanh, về đến nhà, là nồi nước vừa đến độ ngon. Tục lệ “mời cả làng uống nác chè xanh” là một nét văn hóa có tự ngày xưa ở miền trung du Xứ Nghệ đấy.  
    Bát chân yêu (bát tô sành) to chà vá, sắp đầy kín một nong tre, những bát nước nóng hổi, thơm phức. Cả thôn tập trung uống vui vẻ và đàm đạo công việc nhà nông, việc họ, việc làng. Nhớ múc nước bằng gáo dừa, cán tre, chớ múc bằng đồ kim loại hay nhựa, là mất vị chè. Có người nghiện đến nỗi, uống nước chè tính bằng vài ba sải tay. Dang tay ra hết cỡ, bát này kế liền bát khác, vừa một sải tay cỡ trên chục bát, tính là một sải. Ghê thật! Thế mới là dân nghiện. Chỉ mấy lão lực nông tri điền, thân to như hộ pháp, hai sương một nắng, không biết giày dép là chi mới lập được kỷ lục thế giới uống chè xanh như thế mà thôi.
  Riêng món chè xanh om phải dùng bằng ấm sành to, dày. Lá chè phải chọn lựa kỹ : Không bầm dập, màu xanh thẫm, già… rồi vò trong nước lã cho kỹ, để thật ráo nước. Cho nước sôi vào “làm lông” ,đổ kiệt nước ban đầu này đi, rồi mới đổ nước đang sôi sung sục khác vào. Nước phải là nước mưa bảo quản lâu ngày mới tinh khiết, thanh tao, chè mới dậy hương. Ở quê thì ủ trong rơm, trấu, ở phố thì ủ trong giỏ . Kết quả là có một thứ nước, sóng sánh, trong xanh…thơm phưng phức đến quyến rũ. Phải uống nước chè xanh bằng bát sứ, nó mới ngon. Uống một lần là ta nhớ đến tận “ tra” (già) …
   Nước chè xanh nếu pha với mật mía đến độ ngọt vừa phải, nghe nói chữa được khá nhiều bệnh về phổi, tiêu hóa, thận và cả thần kinh nữa.
     Nhắc nhở ai đó, muốn tiếp thị trà xanh các kiểu kiếm sống, chớ dại và mất công xông vào nơi nào có dân Nghệ.
   Chà! Uống chè xanh mà có “bánh khô cặp lạc” (kẹo cu đơ) thì nó mới tuyệt làm sao! Vị chát của chè xanh, cái ngọt khé của mật mía, hương thơm ngậy của lạc rang và giòn giòn bùi bùi của bánh khô… say đến lịm ga. Một món thưởng thức mà tạo hóa ban tặng cho trần gian đấy. Có lẽ, ai từng dùng rồi, trước khi đi về thế giới bên kia chắc vẫn còn luyến tiếc!
  Cơ man nào là đặc sản Xứ Nghệ, nếu ai chịu khó nghiên cứu nghiêm túc, thì chắc chắn sẻ thành “Tiến sỹ thật” về ẩm thực.
  Bài này xin viết từng ấy, đọc xong, không biết độc giả đã mấy lần nuốt nước bọt!
  Đặc sản muôn vùng quê Việt Nam mình thì có nhiều, nhiều lắm, chưa nói đến món Tây, Tàu. Chỉ có điều là, dân Nghệ xa xứ vẫn mãi mãi đam mê và nghiện những món truyền thống quê nhà ấy. Đến nỗi, “lây” sang cả cộng đồng dân bản xứ  nơi người Nghệ cư trú. Rồi nó thành đặc sản chung cho ẩm thực Việt Nam tự lúc nào không biết nữa.
   Cứ vào các nhà hàng bình dân đến đặc sản gọi món Xứ Nghệ, dù không ngon bằng chính gốc, nhưng cũng tạm qua cơn nghiện!
-----------------
Bài viết của tác giả Đặng Ngọc Thăng

Thứ Sáu, 3 tháng 5, 2013

MỘT THỜI CẦN KIỆM

Từ con tàu đánh cá , kéo lưới đuôi, chiều dài 36m, máy chính công suất 400cv, hoạt động không còn hiệu quả, bị thanh lý, những người thợ đóng tàu của nhà máy CƠ KHÍ CÔNG TRÌNH , đã hoán cải thành tàu khảo sát địa chấn , phục vụ công tác thăm dò dầu khí
 Đó là tàu khảo sát địa chấn  BÌNH MINH, ra đời từ năm 1980                                                                                                                                                                                                                                
 Tàu đã hoạt động hiệu quả trong nhiều năm, đóng góp có hiệu quả vào sự nghiệp khai thác dầu khí trên thềm lục địa của tổ quốc Việt Nam

 Giờ đây , ngành dầu khí đã có nhiều tàu dịch vụ địa chấn hiện đại, nhập từ nước ngoài, tàu BÌNH MINH   đã giải bản , nhưng tính cần kiệm của một thời vẫn cần ghi nhớ















Thứ Năm, 2 tháng 5, 2013

XƯA VÀ NAY


Tàu thủy trên Sông Hồng năm 1889


Tàu thủy chở khách du lịch trên Sông Tiền năm 2012